HƯỚNG TỚI 70 NĂM NGÀY TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN (19/12/1946 – 19/12/2016)

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã ghi vào lịch sử dân tộc ta một trong những trang chói lọi nhất, đã  “mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta, một cuộc đổi đời chưa từng có đối với mỗi người Việt Nam. Ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập trịnh trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới : “ Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do, độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách. Trong khi hậu quả nạn đói khủng khiếp do chính sách vơ vét, bóc lột của Pháp – Nhật chưa thể khắc phục thì lụt lội, hạn hán hoành hành khắp nơi; sản  xuất đình đốn, kinh tế kiệt quệ, hơn 90% dân ta mù chữ…Nghiêm trọng hơn là quân đội các nước dưới danh nghĩa là quân Đồng minh lũ lượt kéo vào nước ta. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc tràn vào miền Bắc. Đằng sau chúng là đế quốc Mỹ, tên quan thầy từ lâu vẫn nuôi dã tâm đặt Đông Dương dưới chế độ “ ủy trị” quốc tế, thực chất là một thứ thuộc địa kiểu mới trá hình của Mỹ. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân Anh đã đồng lõa và tiếp tay cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược, để cho những đơn vị bộ binh và xe bọc thép đầu tiên của quân viễn chinh Pháp vào nước ta…Thù trong, giặc ngoài câu kết hòng bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ, đang buổi trứng nước. Khó khăn chồng chất khó khăn trên đất nước ta. Tổ quốc lâm nguy! Vận mệnh dân tộc đang ở thế “ ngàn cân treo sợi tóc”.

 Chính trong tình thế hiểm nghèo đó, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện thắng lợi những sách lược tài tình, mềm dẻo và hết sức linh hoạt nhằm phân hóa cao độ hàng ngũ kẻ thù – lúc thì hòa hoãn với quân Trung Hoa Dân quốc để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm hòa hoãn với Pháp để đuổi nhanh quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai của chúng. “Những biện pháp cực kì sáng suốt đó ghi vào lịch sử nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược lê- nin- nít về lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc”.

Với dã tâm thôn tính nước ta một lần nữa, thực dân Pháp cố tình xóa bỏ Hiệp định sơ bộ 6/ 3/ 1946. Chẳng những chúng không đình chiến ở miền Nam mà còn gây ra nhiều vụ khiêu khích ở miền Bắc. Ngay sau khi có thêm viện binh, tháng 11/1946, Pháp trắng trợn đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn…Đặc biệt nghiêm trọng là ngày 18/12/ 1946, ở thủ đô Hà Nội, sau khi gây ra vụ thảm sát ở phố hàng Bún, đánh chiếm trụ sở Bộ tài chính, Bộ giao thông công chính, thực dân Pháp đã gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta đòi giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, để cho quân Pháp giữ gìn trật tự ở Hà Nội. Hành động xâm lược của Pháp đặt dân tộc Việt Nam đứng trước hai con đường: một là khoanh tay cúi đầu trở lại làm nô lệ, hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập.

Có thể nói, đến thời điểm này mặc dù Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “ trăm phương nghìn kế” để tránh thảm họa chiến tranh, kéo dài thời gian hòa hoãn nhưng ta không thể nhân nhượng với thực dân Pháp được nữa vì nhân nhượng nữa thì mất nước, trở thành nô lệ.

Tình thế khẩn cấp đòi hỏi Đảng, Chính phủ phải có quyết định kịp thời. Trước đó, ngày 12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Trong hai ngày 18 và 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp Hội nghị khẩn cấp ở làng Vạn Phúc ( Hà Đông) dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định toàn quốc kháng chiến. Tối ngày 19/12/1946, mệnh lệnh kháng chiến toàn quốc đã phát đi. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến

“Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên!

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!

Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.

Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!

Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!

Kháng chiến thắng lợi muôn năm!

Lời của Người chính là tiếng gọi của non sông đất nước, động thấu những niềm sâu xa và cao đẹp nhất trong lòng mỗi người dân Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống anh hùng bất khuất; là mệnh lệnh tiến công, thôi thúc, giục giã, tập hợp và soi đường chỉ lối cho toàn dân tộc đứng lên, bình tĩnh chiến đấu bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, với một ý chí quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, kiên định vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Chỉ thi Toàn dân kháng chiến, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến và tác  phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi ( 9/1947) của Tổng Bí thư Trường Chinh là những văn kiện lịch sử quan trọng về đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta. Đó là kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.

Thực hiện chủ trương của Đảng và mệnh lệnh kháng chiến của Hồ Chủ tịch từ đêm ngày 19/12/1946, quân và dân ta đã nhanh chóng nổ súng tấn công vào các vị trí chiếm đóng của Pháp ở Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Vinh, Huế, Đà Nẵng…

Tiêu biểu cho cả nước là cuộc chiến đấu của quân và dân Thủ đô Hà Nội- trái tim của cả nước. Pháo ở các trận địa Láng, Xuân Canh, Xuân Tảo…bắn vào các vị trí địch ở nội thành. Vật cản, chiến lũy được dựng lên khắp các phố. Trung đoàn Thủ đô được thành lập, tiến đánh những trận quyết liệt ở Bắc Bộ phủ, chợ Đồng Xuân… Cả Hà Nội đứng lên, toàn quân và dân Thủ đô đánh giặc bằng mọi vũ khí và phương tiện có trong tay với thế trận “ mỗi người dân là một chiến sĩ”, “ mỗi phố là một mặt trận”. Sau 60 ngày đêm chiến đấu kiên cường, ngày 17/2/1947, quân ta rút khỏi vòng vây của địch ra căn cứ an toàn.

Hình ảnh quyết tử quân

Phối hợp với Thủ đô Hà Nội, quân và dân các đô thị ở Bắc vĩ tuyến 16 cũng giành được thắng lợi quan trọng. Quân và dân Nam Bộ, Nam Trung Bộ tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá kế hoạch bình định, kiềm chế không cho địch đưa lực lượng chi viện cho Trung Bộ và Bắc Bộ. Đồng thời, cùng với những cuộc chiến đấu trực tiếp với quân Pháp, chúng ta thực hiện cuộc tổng di chuyển các cơ quan, kho tàng, máy móc vào An toàn khu. Đến tháng 3/1947, các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, Quân đội, Mặt trận đã được chuyển lên Việt Bắc an toàn. Việt Bắc trở thành Thủ đô của cuộc kháng chiến toàn quốc…

70 năm đã trôi qua kể từ ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 – 19/12/ 2016) nhưng tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh sẽ sống mãi. Ôn cố tri tân, tìm hiểu, học tập và ôn lại những hoạt động quan trọng, đúng đắn, sáng suốt của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh với ngày Toàn quốc kháng chiến thực sự là một việc làm cần thiết và có nhiều ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn.

                 Tượng đài Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh

Những tư tưởng, quan điểm trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có tác dụng động viên toàn dân kháng chiến đánh giặc lúc bấy giờ mà còn có ý nghĩa rất lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Đó là không để xảy ra chiến tranh là thượng sách giữ nước; luôn đề cao Tổ quốc, dân tộc lên trên hết, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc đến giọt máu cuối cùng ; bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân.

Tìm hiểu về lịch sử vẻ vang của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, người dân Việt Nam càng thêm tự hào về truyền thống cách mạng, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Mỗi người trong chúng ta cần ra sức học tập, rèn luyện, phấn đấu đóng góp phần mình trong sự nghiệp đổi mới của đất nước.

Dân tộc Việt Nam anh hùng có tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng và đường lối đúng đắn của Đảng thì khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Công cuộc đổi mới nhất định sẽ thành công.

Bình luận :